0866503536 - 0333491111
Quét mã Qr để đăng ký học nghề
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng DTTS: Bước đột phá giảm nghèo bền vững. Trong kết quả giám sát chuyên đề "Kết quả thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng DTTS từ năm 2010 đến 2013” do Hội đồng Dân tộc thực hiện cho thấy, 3 năm qua đã đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng DTTS: Bước đột phá giảm nghèo bền vững. Trong kết quả giám sát chuyên đề "Kết quả thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng DTTS từ năm 2010 đến 2013” do Hội đồng Dân tộc thực hiện cho thấy, 3 năm qua đã đào tạo nghề cho lao động nông thôn (LĐNT) được 886.621 người, trong đó LĐNT vùng Dân tộc thiểu số (DTTS) là 223.792 người, chiếm tỷ lệ 25,24% so với tổng số lao động được đào tạo. Đáng chú ý, tỷ lệ LĐNT, lao động DTTS tự tạo việc làm sau khi học nghề chiếm tỷ lệ cao 63,1%; đặc biệt lao động học nghề nông nghiệp tự tạo việc làm chiếm tỷ lệ rất cao (87,74%).
Người dân được tham gia chọn lựa học nghề, chất lượng đào tạo nghề sẽ bền vững hơn
Thoát nghèo bền vững nhờ học nghề
Theo thống kê hiện có khoảng 1 triệu hộ nghèo là DTTS, trong đó có hơn 400.000 hộ không có đất và thiếu đất sản xuất nên việc xóa đói giảm nghèo phải bằng cách đào tạo nghề. Xuất phát từ thực tế này, Chính phủ đã ban hành Quyết định 1956 về đào tạo và dạy nghề cho LĐNT, ngoài ra cũng các quyết định 74, 134 cũng có một phần về đào tạo nghề.
Theo đánh giá của Hội đồng Dân tộc, các địa phương đã tổ chức điều tra, khảo sát nhu cầu học nghề, nhu cầu sử dụng lao động theo từng lĩnh vực nghề nông nghiệp, phi nông nghiệp và cấp độ đào tạo. Căn cứ kết quả khảo sát nhu cầu học nghề và sử dụng lao động, UBND các tỉnh đã phê duyệt quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề cấp tỉnh, huyện; xây dựng danh mục nghề đào tạo… Nhờ đó, sau 3 năm tại 51 tỉnh có người DTTS, cư trú đã có 468 cơ sở đào tạo nghề được đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề với tổng kinh phí 2.311,6 tỷ đồng (ngân sách Trung ương 1.968,1 tỷ đồng, chiếm 85,2%; ngân sách địa phương và lồng ghép các nguồn vốn khác 343,5 tỷ đồng, chiếm 14,8%). Ngoài ra, tại các tỉnh có đông lao động DTTS, đã có 1 Trường Cao đẳng nghề thanh niên dân tộc Tây Nguyên và 10 Trường Trung cấp nghề Dân tộc nội trú (Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Phú Yên, An Giang, Kiên Giang)…
Với những nỗ lực trên, sau 3 năm từ 2010 đến năm 2013 tỷ lệ lao động DTTS trong độ tuổi được đào tạo nghề theo Đề án 1956: 223.792/7.820.909 người, chiếm tỷ lệ 2,86%; số LĐNT sau học nghề có việc làm: 620.028 người, đạt tỷ lệ 73,07% so với tổng số lao động đã học xong nghề.
Được đào tạo nghề và có việc làm ổn định đã giúp nhiều người dân thoát nghèo, nhờ đó tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước giảm khá cao, từ 14,27% năm 2010 xuống 9,6% năm 2012 (giảm 4,67%). Tỷ lệ hộ nghèo tính theo các vùng giảm từ 4,24% đến 7,91%. Đáng chú ý, hơn 3 năm có 16.000 lao động DTTS được thụ hưởng chính sách xuất khẩu lao động, đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, trong đó 7.132 lao động DTTS thuộc 62 huyện nghèo. Đa số lao động DTTS đi xuất khẩu lao động đều có việc làm, thu nhập ổn định. Số lao động có thu nhập khá đã gửi tiền về cho gia đình. Các hộ gia đình nhờ có nguồn thu nhập này đã thoát nghèo, đầu tư xây dựng nhà, mua sắm tài sản, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh hiệu quả.
Đảm bảo công bằng học nghề cho lao động nông thôn vùng DTTS
Qua giám sát cho thấy, LĐNT vùng DTTS được đào tạo chủ yếu là tập huấn, bồi dưỡng kiến thức sản xuất (dưới 3 tháng). Đặc biệt thiếu các cơ chế, chính sách ưu tiên đối với người học nghề là người DTTS. Mạng lưới cơ sở dạy nghề tuy đã được quan tâm đầu tư bằng nhiều nguồn vốn, nhiều cơ sở có quy mô, thiết bị khá đầy đủ với nhiều ngành nghề đào tạo... nhưng đã và đang tồn tại nhiều bất cập, nhất là công tác quy hoạch chưa phù hợp, quá tập trung các cơ sở đào tạo nghề tại trung tâm huyện, thành phố; ít cơ sở đào tạo hoặc cơ sở phân hiệu tại các trung tâm cụm xã (tâm lý người học không muốn đi học xa nhà; một số nghề đào tạo ngắn hạn chủ yếu gắn với mô hình dạy nghề tại xã, thôn, bản...). Thực trạng này vừa dẫn đến khó khăn, thiếu chủ động cho công tác phân luồng đào tạo, vừa phát sinh phải tổ chức các lớp đào tạo nghề lưu động về cơ sở gây không ít khó khăn cho cả người dạy và người học, nhất là khâu thực hành.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền về nghề đào tạo, cơ hội việc làm, thu nhập... cho LĐNT, nhất là lao động DTTS còn hạn chế. Chương trình đào tạo nghề còn nặng về lý thuyết, chưa thực sự phù hợp với trình độ nhận thức của LĐNT, đặc biệt là lao động DTTS. Hầu hết đối tượng học nghề ở nông thôn chỉ được đào tạo trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng. Đa số người lao động sau khi được đào tạo nghề vẫn làm nghề cũ (nghề nông nghiệp chiếm tỷ lệ trên 80%). Đối tượng lao động nông dân là người DTTS vẫn ít có cơ hội được học nghề bài bản, chính quy hơn (chương trình từ trung cấp trở lên).
Thực tế từ nhiều địa phương cho thấy, tái nghèo là một trong những nguyên nhân do đào tạo nghề chưa sát với thực tế. Trong 1 triệu hộ nghèo thì có đến 400.000 hộ không có đất và thiếu đất sản xuất, nếu chỉ chuyền nghề nông nghiệp mà không chuyển dịch đào tạo phi nông nghiệp và giải quyết việc làm sau đào tạo sẽ gây lãng phí, bởi họ không có đất sản xuất.
Theo Thứ trưởng - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Sơn Phước Hoan, hiện có tình trạng các cơ sở đào tạo không nắm được thông tin thị trường và không kết nối được với các nơi sử dụng lao động. Thời gian tới, cơ quan làm công tác dân tộc sẽ tổng hợp nhu cầu đào tạo và tìm hiểu thông tin thị trường để nắm rõ nhu cầu lao động, từ đó hướng đồng bào đăng ký học nghề phi nông nghiệp. Đối với lao động nông nghiệp, ưu tiên cho những người có đất sản xuất để khi đào tạo xong, họ có thể vận dụng nghề đã được học vào sản xuất. Xác định xem đất đồng bào được cấp trồng được cây gì để đào tạo nghề cho phù hợp.
Để thống nhất quản lý, tăng cường hiệu quả trong đào tạo nghề cho LĐNT vùng DTTS, Báo cáo giám sát cho rằng cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung "Luật Dạy nghề” thành "Luật Giáo dục nghề nghiệp”, bao gồm cả hoạt động hướng nghiệp, Dạy nghề và Giáo dục nghề nghiệp. Trước mắt, sớm nghiên cứu, thống nhất cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp. Sửa đổi, bổ sung khoản 2, Điều 7 Luật dạy nghề với nội dung khẳng định rõ quan điểm của Nhà nước về phát triển Dạy nghề: "Có chính sách phát triển dạy nghề và giải quyết việc làm ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và cho lao động là người DTTS”. Bên cạnh đó tăng cường hoạt động giám sát, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực khu vực nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn và vùng DTTS; bảo đảm sự công bằng về cơ hội đào tạo nghề, giảm sự chênh lệch về tỷ lệ đào tạo nghề, việc làm và thu nhập giữa các vùng, miền, nhất là các đối tượng thuộc hộ nghèo, cận nghèo, DTTS, vùng đặc biệt khó khăn so với mức trung bình của các tỉnh.
Bảo Khanh
Nguồn: tcdn.edu.vn